Truyện ngắn: Những Người Thợ Xẻ
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì về cơm vua
Ông thợ nào thua
Thì về bú tí...
(Hát dỗ em)
Ông thợ nào khỏe
Thì về cơm vua
Ông thợ nào thua
Thì về bú tí...
(Hát dỗ em)
Ít
năm trước đây, tôi theo một toán thợ xẻ lên miền ngược kiếm ăn. Chúng tôi có
năm người, do anh họ tôi tên là Bường đứng ra làm cai. Bường là một tay anh chị
khét tiếng. Trước kia Bường đi bộ đội, ở một đơn vị đặc công thủy. Năm 1975,
anh dây dưa vào một vụ trộm phân đạm ở huyện, bị tù ba năm. Ra tù, Bường chẳng
chịu làm ăn gì, mở một quán rượu thịt chó nhưng được hơn một năm thì phá sản.
Thời gian Bường mở quán, trong làng tôi nhiều nhà bị mất trộm chó hết sức thần
tình. Có nhà, dù chó đã được đóng cũi, cũi lại để trong buồng, buồng lại khóa,
thế mà vẫn mất. ủy ban xã ngờ Bường là thủ phạm các vụ trộm này nhưng không có
bằng chứng nên anh vẫn vô can. Sau này, vì thua bạc, chán đời, Bường phóng hỏa
đốt quán. ít lâu sau Bường chuyển sang nghề buôn cây. Nhà nào có cây nhãn, cây
mít, cây hồng xiêm... mới ra hoa anh đã đến đặt tiền cọc mua trước. Được hai
năm, anh bỏ đi buôn bè trên mạn ngược. Lần này, Bường về lập một toán thợ xẻ
theo anh lên rừng kiếm ăn. Bường biết, ở miền núi, nghề thợ xẻ là nghề rất có triến
vọng.
Trong
toán thợ chúng tôi có hai anh em sinh đôi là Biên và Biền, đều mười bảy tuổi,
khỏe như trâu mộng. Anh Bường và tôi họ Đặng, còn Biên và Biền họ Hoàng, nhưng
chẳng biết quan hệ họ hàng thế nào mà Biên và Biền gọi anh Bường là bá, còn gọi
tôi là ông trẻ. Biên và Biền là con ông Hai Dung. Ông Hai Dung là thầy dạy võ
trong môn phái Thiếu Lâm Hồng Gia ở quê tôi. Trước, tôi có theo học ông Hai
Dung hai năm. Tôi thuộc thế hệ đàn anh của Biên và Biền. Trong toán thợ, ngoài
bốn anh em còn có cu Dĩnh là con thứ hai anh Bường, thằng bé mười bốn tuổi, đi
theo chúng tôi để hầu cơm nước.
Tôi
là một thanh niên khỏe mạnh. Tôi học xong đại học, do thi trượt tốt nghiệp nên
phải ở nhà, để đợi năm sau thi lại. Nhà tôi đông anh em, bố mẹ tôi sinh được
những chín người con. Các anh chị đều làm ruộng, ai cũng chân chỉ hạt bột, chỉ
có tôi ngỗ ngược hơn cả.
Ăn
tết Nguyên đán xong được mười ngày thì chúng tôi lên đường. Hôm đi, chị Bường
làm cơm.
Năm
người chúng tôi, ai cũng hăng hái. Thức ăn chẳng có gì: một đĩa lòng lợn, một
đĩa dưa muối với hai bát khoai tây nấu cổ cánh gà. Đĩa thịt gà lèo tèo ít miếng
xương xẩu vì bao nhiêu miếng nạc chị Bường phải lọc ra để làm thức ăn cho bố
anh Bường đang ốm nặng bệnh viện. Anh Bường bảo: “Chúng mày thông cảm. Tao
cũng muốn ra quân cho oai nhưng ngặt nhà nghèo quá. Bằng ngày này sang năm,
ngồi ở đây, tao xin hứa mỗi thằng một con gà tần”.
Chúng
tôi ăn uống xong thì lên đường. Mỗi người một ba lô con cóc đeo vai đựng gạo,
đựng quần áo. Cu Dĩnh thì đeo nồi xoong bát đĩa. Dụng cụ có hai bộ cưa xẻ, mấy
cái choòng, mấy ái dũa, ngoài ra chẳng có gì cả.
Chị
Bường dắt theo ba đứa con đưa tiễn chúng tôi. Anh Bường bảo: “Thôi mẹ đi vể đi,
bảo vệ an toàn cái hĩm, chờ tớ một năm sau tớ về”. Chị Bường nửa cười nừa khóc:
“Đồ phải gió! ở trên ấy nước độc lắm đấy! Đừng có tắm đêm mà ngã nước đấy! “
Anh Bường bảo: “Nhớ rồi! Khổ lắm! Đêm ai lại đi tắm nước lã bao giờ? Thôi về
đi! Thương anh giấu ở trong lòng. Xin em chớ có lòng thòng với ai”.
Chị
Bường bảo “Các con chào bố đi”. Ba đứa con anh Bường líu ríu: “Con chào bố”.
Anh Bường bảo: “Vâng! Chào các ông các bà! Các ông các bà ăn no ngủ khỏe. Bố
phải xa mẹ lăn lóc trên đường”. Chị Bường bảo: “Dĩnh ơi, con nấu cơm, nhớ đổ
nước thì đo một đốt rưỡi tay là vừa đấy”. Cu Dĩnh bảo: “Con nhớ rồi. ở nhà mẹ
đừng đánh em Tín nhé. Con có mấy trăm đồng giấu đằng sau cái gương, mẹ cứ lấy
mà tiêu”. Anh Bường bảo: “Đủ rồi đấy, các nhà tình cảm chủ nghĩa ạ. Cứ thế này
văn học nước ta chảy nước ra mất”.
Chúng
tôi đến Hà Nội tìm bến xe đi Tây Bắc. Anh Bường có vẻ rất thạo. Biên, Biền và
cu Dĩnh lần đầu mới được đi xa nên thấy cái gì cũng lạ. Anh Bường bảo: “Chúng
mày cẩn thận. ở Hà Nội ăn cắp như rươi. Nó thỉnh mất bộ cưa thì ăn mày đấy”.
Đường đi Tây Bắc lắm dốc đèo. Biên và Biền bị say ô tô, nôn cả ra mật xanh, mật
vàng. Hai ngày liền ngồi xe, tôi cũng lử lả cả người.
Xuống
xe, chúng tôi ăn uống qua quýt, nghỉ ngơi ở thị trấn H. một buổi rồi theo anh
Bường vào sâu trong vùng núi thuộc đất của đội Bình Minh nông trường X. Hai bên
bạt ngàn là ngô và bông. Những dãy núi đá vôi trập trùng cao ngất. Chúng tôi đi
men ở dưới chân núi, vừa bé nhỏ, vừa cô đơn, lại liều lĩnh, mà bất lực, thậm
chí vô nghĩa nữa. Bạt ngàn là hoa ban trắng, màu trắng đến là khắc khoải, nao
lòng. Này hoa ban, một nghìn năm trước thì mày có trắng thế không?
Anh
Bường bảo: “Cái thằng nào nghĩ ra cái tên Bình Minh ở đất khỉ ho cò gáy này
thật là một thằng bịp bợm khốn nạn”. Lại bảo: “Cái tên hiệu nó ghê lắm nhé.
Vùng ma thiêng nước độc thì tên là Tương Lai, Bình Minh, Tân Lập, Đoàn Kết, Tự
Cường! Kêu cứ như chuông! Mấy thằng bán quán, khách vào thì chém cổ lại đặt tên
là Bình Dân với Thanh Lịch! Còn mấy thằng bán thuốc bắc nạo thai con gái lại
đặt tên là Hồi Xuân với Cứu Thế! Văn học nước mình rôm rả thật!”
Chúng
tôi cười, vừa đi vừa nói chuyện lan man. Khoảng gần tối, chúng tôi gặp một cặp
vợ chồng đang đẩy một xe củi, người vợ cầm càng xe, còn anh chồng đẩy phía đằng
sau. Anh chồng đeo kính, ra dáng trí thức, cô vợ thon thả, trắng trẻo, trông
rất dễ mến. Anh Bường ngỏ lời:
“Thạch
Sanh đốn củi trên rừng.
Cô
vợ đáo để, dừng xe lại ngay: “Có thương thì đẩy giúp, chứ làm thơ thì công chúa
chẳng cần!” Anh Bường cười khà: “Khá lắm! Chú Biền, chú giúp cô ấy một tay. Xin
lỗi hai bác, hai bác về đâu mà đến giờ này vẫn còn vất vả thế này?” Cô vợ bảo:
“Chúng em về đội Bình Minh. Các bác đi xẻ ở đâu thế” Anh Bường bảo: “Nào đã
biết xẻ ở đâu? Tối nay còn chẳng biết ngủ ở đâu nữa là”. Anh chồng xởi lởi:
“Hay các bác về nhà chúng tôi? Nhà chỉ có mỗi hai vợ chồng son, củng rộng rãi.
Biền cầm càng xe, chúng tôi đẩy phía đằng sau. Cả bọn vừa đi vừa nói chuyện.
Anh chồng cho biết tên là Chỉnh, là bác sĩ ở bệnh viện nông trường, còn cô vợ
tên là Thục, là giáo viên cấp hai. Hai vợ chồng có nhà ở đội Bình Minh, lấy
nhau được hơn năm nay nhưng chưa có con. Hai người đều quê ở Hà Nam Ninh.
Ăn
cơm xong, chúng tôi ngồi nói chuyện phiếm. Anh Chỉnh bảo: “Trong Tạ Khoang có
cây chò chỉ bị đổ, ông Thuyết phó giám đốc nông trường xin xẻ làm nhà, các bác
đến hỏi thì có việc đấy”. Chị Thục bảo: “Dào ôi, xẻ cho cái lão người khu Bốn
ấy thì ăn cứt sắt, lão ấy keo kiệt lắm”. Anh Bường bảo: “Chó ngựa thì có chọn
chủ bao giờ. Bà chị ơi, bà chị có thương chúng em là loài súc vật thì mách
đường đi đến nhà ông Thuyết ấy”. Chị Thục bảo: “Đi thì đi. Cách đây dăm nhà chứ
mấy”. Anh Bường đi theo chị Thục, lát sau về bảo: “Mai quân ta kéo vào Tạ
Khoang”. Chị Thục bảo: “Em chịu bác Bường, bác nhũn thật đấy. Anh Chỉnh này, có
ai công xẻ gỗ rừng lại đi tính như công thợ mộc mướp của nông trường không? Thợ
nông trường còn có gạo cấp, các bác là dân tự do lấy gì mà ăn?” Anh Bường bảo:
“Bí kế phải nhận thôi, tôi cũng chẳng nhũn gì đâu. Kéo cưa lừa xẻ mà... “ Chị.
Thục bảo. “Dân khu Bốn ghê thật. Gì thì gì, cái đất cằn nó làm ti tiện con
người dến sợ. Ngồi nói chuyện, chủ nhà không mời được hớp nước nóng”. Anh Chỉnh
bảo: “Cô thành kiến lắm. Người ta chỉ xét gốc tích quê quán của bọn người
thường, ở bậc cao nhân điều ấy có quan trọng gì”.
Chị
Thục cười nhạt: “Ông Thuyết là cao nhân chắc?”. Anh Chỉnh bảo: “Gì thì gì, đã
làm đến phó giám đốc nông trường thì đừng có bỉ người ta”. Chị Thục bảo. “Vâng,
anh thì lấy lễ làm trọng”. Anh Bường bảo: “Tay ấy cũng cao nhân đấy, bà chị ạ.
Hắn nói chuyện với mình hệt như nói với thằng Không, thế là hắn cũng đắc đạo.
Hắn có cho em cãi hắn một câu nào đâu?” Chị Thục phì cười: “Đạo gì mà đạo lạ
thế?” Anh Bường bảo: “Nước ta lắm dạo lắm. Trong miền Nam có đạo thờ cả ông
Quan Công, lẫn ông Victo Huygô thì mới quái dị”. Chị Thục bảo. “Thế thì tôi
biết ông Thuyết thờ đạo gì rồi”. Anh Bường cười tủm: “Em cũng biết”.
Sáng
hôm sau, chúng tôi dậy sớm nấu cơm ăn rồi đi gặp ông Thuyết, Chị Thục bảo: “Tôi
thấy các bác nấu canh suông, cầm lấy gói mì chính mang đi chế vào cho nó có
chất”. Anh Bường giãy nảy không nhận. Chị Thục bảo: “Các bác khinh vợ chồng em,
lần sau đừng có qua đây nhé”. Anh Bường phảỉ nhận. Anh Bường bảo: “Chúng em cám
ơn”. Rồi thở dài: “Nghĩa này phải trả đây”. Anh Chỉnh cười: “Bố thợ xẻ. này khó
chơi thật. Bố cứ kỹ tính thế thì chóng già đấy”.
Chúng
tôi gặp ông Thuyết ở đầu ngõ. Tôi rùng mình vì trông thấy khuôn mặt ông ta: mặt
đen mà tái như da ở bìu dái, lông mày rậm, răng vẩu mà vàng như răng chó. Ông
Thuyết bảo: “Đi bộ mất mấy cây số”. Nói xong đi liền, suốt chặng đường chẳng nói
năng gì.
Cây
gỗ chò chỉ bị bão đánh bật gốc nằm vắt ngang suối cạn, dài phải đến ba mươi
mét, vòng gốc phải bốn người ôm mới xuể. Ông Thuyết bảo: “Chơi được không?” Anh
Bường bảo: “Ghê cả răng”. Ông Thuyết có vẻ khó chịu. Anh Bường bảo: “Chỗ này xa
nhà nhỉ”. Ông Thuyết bảo: tớ đây chỉ có gấu với khỉ thôi. Các bác làm lều mà ở.
Chiều tôi cho người mang chăn chiếu đến. Tự túc, tự cường, làm việc thật lực
nhé. Kích cỡ phân khối tôi ghi cả trong tờ giấy này”. Ông Thuyết đưa cho anh
Bường một tờ giấy kín đặc chữ. Anh Bường cầm lấy đưa cho tôi. Anh Bường bảo:
“Thưa bác, nhỡ chúng em bị chó sói ăn thịt thì sao?” ông Thuyết bảo: “Không có
chó sói đâu. ở đây chỉ sợ rắn thôi. Các bác phải cẩn thận loại rắn màu xanh
lục, nó đớp một phát là toi đời đấy”. Anh Bường cười nhạt: “Cám ơn bác chỉ bảo.
Thế mấy ngày bác cho đưa thức ăn một lần?” ông Thuyết bảo: “Cũng còn tùy, nhưng
cứ yên tâm, tôi sẽ cung cấp đều. Tôi về nhé!” Anh Bường bảo: “Bác lại nhà.
Cho em gửi lời cám ơn bác gái với các cháu”.
Ông
Thuyết đi, còn lại trơ trọi năm người chúng tôi giữa cánh rừng hoang. Anh Bường
chửi: “Tiên sư đời, khốn nạn chưa! Các con ơi các con, các con đã biết đời là
gì chưa?” Tôi bảo: “ Cái ông Thuyết trông kinh nhỉ”. Anh Bường bảo: “Làm việc
đi chúng mày! Thằng Biên thằng Biền chuẩn bị cưa! Tao với thằng Ngọc làm lán.
Dĩnh ơi, mày đi xung quanh đây xem chỗ nào có nước không?”
Chúng
tôi bắt tay vào việc. Anh Bường chặt tre, đánh gianh, loáng cái là xong. Biên
và Biền cưa khúc ngọn trước, xẻ ra mấy tấm ván làm phản nằm. Đến chập tối thì
xong mọi việc. Cu Dĩnh đang nấu cơm thì thấy một cô gái gánh đồ lúng củng đến.
Cô gái xưng tên là Quy, mười bảy tuổi, là con gái đầu của ông Thuyết. Quy trắng
hồng, khuôn mặt trông rất dễ ưa. Anh Bường bảo: “ Em ơi, bà chúa của anh ơi, em
mang những gì cho các anh đấy”. Quy bảo: “Thưa bác, bố cháu bảo mang cho các
bác hai cái chăn bông, năm cân thịt lợn, một chai nước mắm với hai chục cân
gạo”. Anh Bường bảo: “Được rồi. Thế có mang cho các anh cái đèn không?” Quy
bảo: “Thôi chết, cháu quên mất. Cháu tưởng các bác ở giữa rừng thì cần gì đèn.”
Anh Bường bảo: “Sống dầu đèn, chết kèn trống. Tưởng gì mà tưởng lạ thế “ Quy
bảo: “Thôi được, ngày mai cháu lại vào, cháu về đây” Anh Bường bảo: “Sao lại
về? Ngủ đây với các anh. Anh bảo thằng Ngọc kể chuyện trinh thám cho mà nghe”.
Quy bảo: “Phải gió! Cháu về đây Trời sắp tối rồi”. Anh Bường bảo: “Ngọc! Tiễn
cô bé một đoạn”.
Tôi
đi theo cô gái. Tôi hỏi: “Em tên là Quy à? Tên hay nhỉ?” Quy cười: “Có gì đâu
mà hay? Con gái tên là Quy vất vả lắm. Có người bảo em có cái tên rất chi là a
dua”. Tôi bảo: “Cái tên ấy kể cũng lạ. Hình như cũng là một thứ thần trùng. Hồi
tôi học đại học, những cô nào tên Quy đều nhạt thếch và bạc bẽo”. Quy ngạc
nhiên: “Anh học đại học, sao còn đi làm thợ xẻ?” Tôí cười, học lối nói của anh
Bường, tôi bảo: “Đấy là vì tình đấy, em ạ. Tình bao giờ cũng lung tung. Người
ta chỉ xót nó khi nó buột khỏi tay thôi”. Quy bảo: “Anh nói hay nhỉ? Em chẳng
hiểu gì”. Tôi bảo: “Em chẳng hiểu gì đâu”. Trong lòng tôi một nỗi căm giận vô
cớ bỗng dưng vụt đến, khiến tôi đắng khô miệng lại. Tôi rít khe khẽ: “Chỉ có
một anh thôi, còn lại là chúng nó”. Quy ngạc nhiên, hốt hoảng. Chúng tôi chia
tay nhau như người dưng. Mà người dưng thật! Người dưng ơi người dưng, một
triệu người tôi gặp trong đời có ai là máu của máu tôi? Là thịt của thịt tôi?
Có aị sẽ sống vì tôi và chết vì tôi? Có ai không? Có ai là hoàng đế của tôi?
Cũng là thần tử của tôi? Ai là tâm phúc với tôi? Là hy vọng của tôi? Cũng là
địa ngục của tôi?
Tôi
quay lại lán. Cả bọn ăn cơm thầm trong bóng tối. Anh Bường hỏi tôi: “Thế nào?
Mày có hôn con gái tay Thuyết được cái nào không mà mặt mày u ám như mặt khỉ
ấy?” Tôi cáu: “Anh đừng đùa kiểu ấy”. Anh Bường bảo: “Thôi ông trí thức con ơi,
các ông cứ đâu đâu về mặt đạo đức, điều ấy chỉ có lợi cho chính trị thôi, còn
đàn bà thì không có lợi gì cả”. Tôi ăn cơm mà thấy miếng cơm nhạt thếch. Tôi
cắn tan cả một hòn sỏi trong miệng. Có gì đâu, hồi học đại học, tôi đã từng yêu
và chịu đau đớn. Tôi sẽ kể lại việc này ở một đoạn khác. Ban đêm, sương xuống
lạnh chúng tôi đốt một đống lửa rồi chui vào chăn nằm. Nửa đêm, có một con
hoẵng tác rất thảm thiết ở bên kia núi, tôi không sao ngủ được. Anh Bường thức
dậy bảo: “Này công tử bột, nhớ nhà hả?” Tôi bảo: “Không. Con hoẵng nó kêu
thương quá. Nó lạc mẹ hay sao hả anh?” Anh Bường bảo: “Mày không nên đa cảm như
thế. Cuộc đời còn cực nhọc lắm con ạ. Chúng ta phải làm kiệt sức để kiêm miếng
ăn, đa cảm làm yếu người đi. Ngày mai khối lượng công việc rất nặng. Mày mất
ngủ vì một tiếng hoẵng kêu, điều ấy có hại vô cùng. Tao đưa mày lên rừng làm
việc chứ không phải để mày tu dưỡng”. Tôi thở dài: “Hoẵng nó kêu suốt đêm...
Bao giờ nó sẽ gặp mẹ... Anh cứ ngủ đi. Anh kệ em! Ngày mai em không làm mất
việc đâu”. Anh Bường cáu: “Thằng khỉ ạ, những nhạy cảm vô lối sẽ làm tan nát
cuộc đời mày mất thôi. Làm gì có chuyện hoẵng đi tìm mẹ? Con ơi, đấy là một con
hoẵng cái trụy lạc, nó đi tìm hoẵng đực. Vô phúc cho nó, vớ được một con hoẵng
đực Sở Khanh. Con hoẵng đực này chơi bời nhiều quá. Hoẵng cái bị đổ bệnh. Đơn
giản là như thế”.
Mãi
mãi là như thế. Tất cả những tiếng kêu trong đêm đều là tiếng kêu bệnh hoạn của
dục vọng suy đồi. Tình mẫu tử không bao giờ gào toáng lên thế. Tình mẫu tử là
thứ nước màt chảy ngược vào lòng, nó bào tan nát ruột gan ra, hoặc nó biến
thành máu để bắt cơ thể làm việc, buộc phải đẻ ra một sản phẩm vật chất cụ thể
thiết thực, không hề phù phiếm”.
Tôi
ngủ thiếp đi trong những chập chờn mộng mị. Tôi biết anh Bường không có khả
năng lý giải gì về sự sống. Mà nói chung, không ai lý giải được gì về nó, cái
sự sống vô cùng vô tận ấy. Hễ tối tăm và đói kém là nó sẽ tác ầm lên.
Sáng
hôm sau, cơm nước xong là chúng tôi vào việc. Biên với Biền một cặp. Tôi với
anh Bường một cặp. Chúng tôi dùng cưa ngang cắt cây gỗ ra từng đoạn ngắn dài
theo kích cỡ ông Thuyết định sẵn. Chò chỉ là loại gỗ rất cứng và giòn, cưa
ngang thì dễ, xẻ dọc thì thật cực nhọc. Thân gỗ to, chúng tôi phải xẻ theo lối
Thanh Hóa, tức là cứ để khúc gỗ ngang dưới đất mà xẻ chứ không kê kích gì cả. Không
hiểu cây chò chỉ này ra sao mà nhựa gỗ rất cay, cả bốn chúng tôi ai cũng nước
mãt nước mũi giàn giụa. Anh Bường bảo: “Loại gỗ này vua Thủy Tề dùng làm nhà
dưới nước, khó nhằn lắm. Mẹ khỉ, kiếp trước lũ chúng ta nợ thằng cha Thuyết một
vạn quan đây”.
Theo
giấy tờ ông Thuyết ghi sẵn, chúng tôi phải xẻ cái cột nhà 40x40x320, đấy là
chưa kể các cây quá giang với vì kèo. Anh Bường bảo: “Lão Thuyết này làm nhà
kiểu gì mà lắm cột cái thế không biết? Hay là nhà sàn?” Buổi trưa có một anh
công nhân nông trường đi kiếm củi qua chỗ chúng tôi Anh Bường níu lại nói
chuyện. Anh Bường phàn nàn phải xẻ 36 cái cột nhà to tướng, anh công nhân cười:
“Nhà năm gian trên này chỉ đến 12 cái cột là hết mức. Tay Thuyết này ranh lắm,
chắc chắn hắn xẻ để bán cho cánh lái xe dưới xuôi đây mà. Họ thích cột nhà bằng
gỗ chò chỉ lắm”. Anh Bường bảo: “Ông anh này, phiền bác dụ cánh lái xe vào đây,
bọn này sẽ bán trực tiếp, không cho tay Thuyết biết, có được không?” Anh công
nhân bảo: “Được. nhưng có mầu không? “ Anh Bường bảo: “Dứt khoát chứ? Bác tên
là gì? Em tên là Đặng Xuân Bường”. Anh công nhân bảo: “Tôi tên là Trần Quang
Hạnh”. Anh Bường bảo: “Bác có cái tên đẹp thật. Đừng làm xấu cái tên nhé”. Anh
công nhân cười: “Được rồi, bốn hôm nữa sẽ có ô tô vào đấy”.
Suốt
ngày hôm ấy, chúng tôi chờ mãi nhưng không thấy Quy đến. Anh Bường bảo: “Con
ranh con, lại nói dối rồi. Đàn bà ấy, chúng mày ạ, không nên bao giờ đặt lòng
tin vào chúng. Chúng tàn bạo trong chính sự ngây thơ trong trắng của chúng.
Chúng gây ra cho ngưti ta hy vọng, ham muốn, chờ dợi; rất cuộc, ta cứ mòn mỏi
đi cho đến khi nhắm mắt xuôi tay”
Hôm
sau nữa thì Quy đến. Cô mang cho chúng tôi hai cái bắp cải với cây đèn dầu. Qúy
bảo: “Eo ôi, các bác làm nhanh nhỉ. Được bao nhiêu là gỗ rồi. Mai cháu phải bảo
bố cháu vào xem mới được”. Anh Bường bảo: “Đừng bảo ông cụ vào, bọn anh chỉ mê
em thôi. Ông cụ vào là bọn anh lãn công đấy. Lao động chân tay, em ạ, không thể
lấy chính trị động viên được, chỉ lấy tiền và gái thôi, đấy mới là thuốc bổ
chứ. Chủ nghĩa tư bản nó có cái đểu là lấy tiền và gái để bóc lột giá trị thặng
dư, nó làm cho các bác vô sản nhà ta mất hết của cải và tinh lực. Đả đảo chủ
nghĩa tư bản thối nát”.
Anh
Bường đọc để cho tôi chép. Thư như sau:
Quy
bảo: “Bác Bường viết thư hay nhỉ”. Anh Bường cười khà: “Cũng là trò mị dân
thôi, cô em ơi. Tráng sĩ xa nhà, cốt nhất cái hậu phương phải ổn định”. Chúng
tôi giữ Quy lại ăn cơm nhưng Quy không nghe. Anh Bường bảo: “Phiền cô em vất vả
quá. Em ngồi đây, anh bảo chúng nó vật nhau mua vui cho mà xem”.
Anh
Bường bảo chúng tôi cởi quần áo ra rồi làm bốn cái thăm bằng giấy, người nào
bốc phải thăm có dấu cộng thì phải vào xới vật nhau. Tôi và Biền bốc phải thăm
có dấu cộng. Anh Bường cười khà: “Hay quá, tao chỉ sợ thằng Biên, thằng Biền
bốc phải thăm, hai anh em sinh đôi vật nhau thì chẳng khác “Củi đậu đun hạt
đậu, hạt đậu khóc hu hu, cùng sinh ra một gốc, thui nhau nỡ thế ru?(1) (Thơ Tào
Thực). Bây giờ bắt đầu vào cuộc, thằng nào thắng chiều nay được nghỉ”.
Tôi
với Biền vào xới. Biền ít tuổi nhưng to con hơn tôi, hắn nặng những 62 cân. Tôi
và Biền đều học thầy Hai Dung nên các ngón nghề đều chẳng lạ gì nhau. Biền tính
rất cục, hắn đã cáu lên thì bất chấp, anh em họ hàng hắn cũng chẳng nể. Tôi
biết vậy nên bước vào xới tôi phải tươi cười như hoa như nụ, đi những miếng nhẹ
nhàng để đẩy hắn vào thế không chơi ác được. Hai chúng tôi vờn nhau độ ba phút
tôi đã dụ Biền theo nhịp những miếng trò hào hoa vô thưởng vô phạt của tôi. Tôi
giơ chân, Biền cũng giơ chân. Tôi giơ tay, Biền cũng giơ tay. Anh Bường, Quy,
Biên và cu Dĩnh vỗ tay hò hét rầm lên. Tôi bổ miếng thượng, Biền cũng bổ miếng
thượng. Tôi bổ miếng hạ, Biền cũng bổ miếng hạ. Tôi nghĩ thầm: “Số thằng này,
trời bắt ăn đất, không phải lỗi ở mình”. Tôi phục xuống, vận nội công bất thần
hai tay tóm lấy cổ chân Biền ngay chỗ mắt cá, vừa bóp vừa tuốt thẳng lên quá
đỉnh đầu. Biền bị đau, lại mất thế, ngã oạch một cái. Tôi sấn vào, gịân đầu gối
vào chỗ bọng đái, lấy cùi tay chặn ngay cổ Biền khiến hắn không thở được nữa.
Mọi người vỗ tay rầm lên. Biền ngồi dậy, lắc đầu: “Ông trẻ đểu thật, tưởng chơi
đùa hóa ra chơi thật”. Tôi cười, vỗ vai Biền: “Mình xin lỗi, miếng này ông cụ
dạy thêm nên Biền không biết đấy thôi”.
Quy
có vẻ thích, hai má đỏ lựng. Anh Bường bảo: “Bây giờ đến lượt anh”. Anh Bường
nhảy ra bãi cỏ, đi bài Xà quyền là một bài võ nổi tiếng trong môn phái võ Vịnh
Xuân, vừa đẹp mắt, lại biến hóa khôn lường. Chúng tôi nhìn, ai nấy đều nín thở,
thót tim lại vì căng thẳng. Tôi đã thấy nhiều người múa quyền nhưng ít thấy ai
chuyên tâm vào bài quyền như vậy. Chúng tôi như bị hút hồn. Chỉ đến khi anh
Bường dừng tay bái tổ, cả mấy anh em chúng tôi rnới thở phào nhẹ nhõm. Chiều
hôm ấy trời nắng chang chang. Tôi hỏi anh Bường: “Em tự do chứ?” Anh Bường dứt
khoát: “Không”. Tôi bảo: “Thằng nào được vật thì nghỉ cơ mà?” Anh Bờng kéo tôi
ra góc để Biên và Biền khỏi nghe thấy. Anh Bường bảo: “Tao nói cho mày biết,
mày bỏ cái trò lưu manh ấy đi. Mày dụ thằng Biền chơi giả để hạ nó thật. Lối
vật của mày là lối vật của quân trí thức, mày bịp con Quy thì được chứ không
bịp được tao đâu”. Tôi cười: “Anh biết không: người cách mạng chỉ chú tâm vào
mục đích cuối cùng mà thôi”. Anh Bường bảo: “Đừng có bẫy tao vào chính trị tư
tưởng, mày đểu lắm”. Tôi bảo: “Anh còn lạ gì thằng Biền nó khỏe thế, nó bẻ gãy
tay tôi anh có thương không?” Anh Bường bảo: “Bản chất của mày là một thằng trí
thức lưu manh chính trị. Tởm lắm! Cút mẹ mày đi “ Tôi bảo: “Anh là một thằng tù
hình sự, một tên lưu manh “gin”, tại sao anh không chịu nổi tôi?” Anh Bường nhổ
nước bọt vào mặt tôi. Anh bảo: “Mày tự do. Nếu cần, sáng sớm mai tao đi vay
tiền cho mày về xuôi”.
Tôi
nằm úp mặt xuống bãi cỏ. Gió thổi một lúc làm khô bãi nước bọt trên mặt tôi.
Bàn tay tôi sạn chai và rớm máu, bàn chân tôi nứt nẻ. Suốt một tuần nay tôi
không tắm giặt, da thịt tôi bẩn thỉu, ngứa ngáy. Tôi bỗng thấy thương xót mình
ghê gớm. Một nỗi thương xót khủng khiếp bóp nghẹt tim tôi. Tôi hộc lên như chó.
Tôi lăn lộn trong đám cỏ gianh, đá nhọn và gai góc. Tôi nhắm mắt lại để cố hình
dung khuôn mặt cô gái tôi đã từng yêu.
Nàng
bé nhỏ, mặt tròn, lông mày rậm, có một nốt ruồi sau cổ cách tai phải chừng bốn
phân. Tất cả đường nét trên khuôn mặt nàng đều khá rõ ràng: đôi môi, cánh mũi,
cả những đường viền... Nàng không hiểu tôi có thể mang lại cho nàng điều gì đó
hơn cả tình yêu (làm gì có tình yêu?) Nàng dã đánh mất đi sự kính trọng và
thương xót trong tôi. Mãi mãi. Vĩnh viễn. Không gì cứu chuộc được. Tôi chỉ căm
giận, căm giận những phù vân trong toàn bộ hoàn cảnh sống của thời dại tôi.
Những giáo điều đạo đức bao giờ cũng giản dị, ngây ngô, buồn cười, sơ lược,
thậm chí còn đểu giả nữa. ác nhất là những giáo điều ấy đúng. Bởi nó cần. Nó là
sợi xích tròng cổ để giữ hình ảnh tương đối về mỗi chúng ta. Nếu không sẽ là
hủy diệt...
Tôi
đi vào rừng tìm nước tắm. Suối cạn khô. Những cánh bướm trắng lả tả, chập chờn
trong hộc đá. Ngược suối mãi, tôi mới tìm được một mó nước khả dĩ tắm được. Tôi
cởi trần truồng, đầm mình trong vũng nước giống như trâu đầm. Nước xanh lè, hơi
nhơn nhớt vì đáy nước nhiều lá mục quá. Tôi không dám tắm lâu vì sợ ốm, sợ ngã
nước. Hai mươi mốt tuổi đầu mà chết thì thật phí đời. Cần phải sống, cho dù
cuộc sống ngàn lần khốn nạn, đầy rẫy xấu xa cũng như cực nhọc.
Tôi
quay trở về lán xẻ. Anh Bường kê chéo khúc gỗ đang cùng cu Dĩnh kéo cưa. Anh
Bường đứng trên cao, còn cu Dĩnh ngồi phệt xuống đất. Thằng bé rán sức, mồ hôi
mồ kê đầy trên lưng trông rất tội nghiệp. Tôi đến gần cu Dĩnh, lẳng lặng cầm
lấy tay cưa. Tôi và anh Bường không nói năng gì, cứ thế lầm lụi xẻ hết khúc gỗ
này đến khúc gỗ kia đến tận tối mịt.
Sắp
sửa nghỉ, lúc ấy tôi đứng dưới đất, dé chân chèo, tôi chuẩn bị dừng cưa thì
“xoẹt” một cái, tay cưa chạm sát ngực tôi. Tôi kêu một tiếng thảm thiết rồi ngã
lăn ra. Không biết vô tình hay hữu ý, anh Bường đã để lưỡi cưa bật thia lia qua
mạch gỗ, bập vào đầu ngón chân tôi. Chỗ khớp ở đầu ngón chân trái của tôi trồi
ra một đoạn đầu xương trắng nhởn. Máu xối ra ướt đẫm. Tôi đau đến nỗi cơ hàm
của tôi ríu lại, giật liên hồi như thể động kinh, mồ hôi rịn ra đầy mặt, trong
khi đó toàn thân tôi lạnh toát. Tôi lăn lộn trên đất. Biên và Biền phải nằm đè
lên, áp người tôi xuống đất. Anh Bường tái mặt đi, dùng một sợi dây cao su buộc
ga-rô giữa bàn chân tôi để cầm máu. Anh Bường rối rít gọi cu Dĩnh lấy nước nóng
hòa muối để rửa vết thương cho tôi. Tôi tê dại vì đau đớn. Hai hàm răng lập
cập, mặc dầu tôi đã gắng sức nhưng không thể khép hàm lại được. Mãi đến nửa đêm
tôi mới thiếp đi có lẽ vì tôi hoàn toàn kiệt sức. Tôi sốt miên man ba ngày
liền, chân sưng tấy lên. Vết thương thật kinh khủng: lưỡi cưa phạt mất hai phần
ba ngón chân, lủng là lủng lẳng. Phần thịt ở đầu ngón chân đen lại, chắc bị
thối. Anh Bường đập nhỏ những viên tétraxyclin rắc lên vết thương, mặc dù tôi
rửa nước muối nhưng chỗ khe nứt vẫn có mủ trắng.
Buổi
chiều, anh công nhân nông trường tên là Trần Quang Hạnh dẫn vào một xe “Zin”
bốn tấn. Anh Bường bán phắt mười hai cái cột nhà với cả mấy hộp gỗ to dài 2m20,
dày 8 phân, rộng 60 phân. Lái xe trả tiền sòng phẳng. Anh Bường chia cho người
dẫn mối hai chục nghìn. Anh Bường bảo: “Bác Hạnh ạ, bác phải đổi tên là Trần
Đức Hạnh”.
Anh
Chỉnh và chị Thục đi lấy củi qua chỗ chúng tôi. Thấy chân tôi sưng to, chị Thục
rất thương xót. Chị Thục chỉ tay vào mặt anh Bường mắng: “Bác thật dã man, chân
nó thế này mà không chạy chữa gì à?” Anh Bường cúi mặt, thút thít khóc: “Bà chị
bảo em làm gì được?”
Anh
Chỉnh xem xét vết thương của tôi. Anh Chỉnh bảo: “Phải cắt phần đầu ngón chân
bị thối. Để lâu sẽ hoại thư, chết người! Khổ quá, tôi không mang dụng cụ y tế
đi theo”.
Anh
Chỉnh đặt dao vào chỗ dầu ngón chân tôi. “Uỵch” một phát, chưa chi anh Bường đã
lấy chầy nện xuống sống dao. Tôi bật người lên vì đau quá. Anh Chỉnh bảo: “Chưa
chi đã chặt, lưỡi dao đã khớp đâu nào?” Tôi bảo: “Thôi thôi, đau lắm, chặt nữa
thì chết chân tôi”. Chị Thục giằng lấy chầy trong tay anh Bường: “Cút đi! Định
giết người ta hay sao?” Chị Thục bảo anh Chỉnh: “Bao giờ được, anh bảo em”. Anh
Chỉnh bảo: “Được rồi đấy! Chặt đi” Chị Thục vung chầy: “khự” một cái, chỗ thịt
thối ở đầu ngón chân tôi văng ra. Tôi cắn chặt răng vào bàn tay, hoa mắt đi...
Anh
Chỉnh tiêm thuốc, băng chân lại cho tôi Anh Chỉnh bảo: “Tốt rồi, khoảng vài
ngày là ổn”. Anh Bường cầm mẩu thịt thối ở đầu ngón chân tôi ném vào đống lửa.
Anh Bường bảo: “Tôi chỉ ước toàn bộ chất lưu manh trong con người nó cũng cháy
như cục thịt này”.
Chị
Thục bón cháo cho tôi, sau lại lấy cả một con sâm Triều Tiên trong túi thuốc
của anh Chỉnh đưa cho tôi ngậm. Anh Bường bảo: “Thằng Ngọc sướng nhé. Đời tao
chưa bao giờ được ai hầu hạ săn sóc tận tụy thế này”. Chị Thục bảo: “Đưa chân
đây, tôi chém cho một nhát rồi tôi săn sóc cho”. Anh Chỉnh cười: “Vợ tôi ở nhà
thì kèn kẹt, nhưng ra thiên hạ thì xởi lởi hào phóng lắm anh ạ”. Anh Bường bảo:
“Đàn bà lạ lắm. Cái gì thuộc về họ thì họ hành hạ đến nơi đến chốn, họ chỉ quý
thứ tình gió đưa thôi. Bởi vậy, sống ở đời, khốn nạn nhất là thằng đàn ông nào
trở thành vật sở hữu của đàn bà”. Anh Chỉnh bảo: “ừ, có thế thật”. Chị Thục
bảo: “Thế thì anh sống với tôi làm gì? Hay là ly dị?” Anh Chỉnh cười: “Lại tự
ái rồi”.
Anh
Chỉnh với chị Thục định về. Anh Bường bảo Biên và Biền xếp lên xe ba gác của
anh Chỉnh hai hộp gỗ. Anh Bường bảo: “Chúng em biếu hai bác bộ phản mang về
nằm. Của thiên hạ, mình là người tốt không được hưởng, để bọn người xấu nó
hưởng thì xót xa lắm. Chị Thục nhất định không nhận. Chị Thục bảo: “Không được
đâu! Gỗ này thuộc quyền sở hữu của ông Thuyết rồi”. Anh Bường bảo: “Hôm qua
chúng em đã bán cho cánh lái xe một nửa. Sợ gì đời!” Anh Chỉnh cười: “Các bố
thợ xẻ liều thật, bán giời không văn tự. Tay Thuyết nó hạch thì sao?” Anh Bường
bảo: “Các bác yên tâm. Chúng em có cách. Tay Thuyết nó trả công rẻ như thế,
chúng em không lừa xẻ mà chỉ kéo cưa thì sống làm sao? Chị Thục bảo: “Gì thì
gì, tôi không nhận đâu”. Anh Bường gọi Biên, Biền và cu Dĩnh đến: “Tất cả chúng
mày quỳ xuống lạy hai bác đây bốn lạy. Hai bác không nhận thì tất cả đập đầu
vào đá tự tủ cho tao. Người ta không coi chúng mình là người nữa đâu”. Cả mấy
anh em thợ xẻ quỳ xuống chắp tay. Cả cu Dĩnh cũng quỳ xuống, mặt úp xuống đất.
Chị Thục khóc: “Thôi thôi, các bác làm gì lạ thế. Tôi xin nhận một hộp gỗ vậy”.
Anh Bường sướng lắm, cầm tay chị Thục lắc lấy lắc để: “Thế là bà chị thông cảm
cho chúng em rồi. Bà chị không coi chúng em là súc vật! Chúng em phận hèn, của
cải chẳng có, chúng em mắc nợ nghĩa tình thì khốn nạn lắm!”.
Biên,
Biền đẩy xe đưa tiễn anh Chỉnh với chị Thục đến tận cửa rừng.
Ông
Thuyết xem xét cây gỗ, phàn nàn: “Tôi tưởng cây chò chỉ này xẻ ra phải được vài
khối, hóa ra cũng ít nhỉ?” Anh Bường bảo: “Bác tính, một nửa cây gỗ rỗng ruột,
được thế là khá đấy. Bác làm nhà, bác phải hạ thêm ít nhất hai cây nữa”. Ông
Thuyết bảo: “Tôi tính rồi, cây gỗ này chỉ làm cột với quá giang thôi, vì kèo
với cầu phong, li-tô phải hạ thêm cây dâu nữa. Tôi cũng mụốn xẻ ít ván, nhưng
cạn tiền quá”. Anh Bường bảo: “Bác gắng lên là được”. Ông Thuyết bảo: “Xẻ xong
cây gỗ này thì xẻ tiếp cho tôi cây dâu. Cây dâu này mọc hơi cheo leo. Lại ở xa
nữa. Anh Bường bảo: “Tiền làm được hết”. Ông Thuyết bảo: “Cây dâu này có hai
chủ, tôi chỉ ké vào thôi. Chủ chính là ông Sông, người Thái ở bản Vược. Sáng
mai ông ấy vào đấy”. Ông Thuyết lấy giấy bút ra tính toán rồi bảo:
“Bây
giờ tôi thanh toán tiền công. Theo thỏa thuận, xẻ cây gỗ này tôi phải cấp 50
cân gạo, 10 cân thịt với từng này... từng này... tiền. Thế nhưng các bác xẻ
không đủ số lượng, tôi trừ từng này... từng này... tiền. Hai cái ruột chăn
bông, từng này tiền... các bác cần thì tôi bán lại”. Anh Bường bảo: “Như thế là
bác chỉ trả một phần ba số tiền thỏa thuận thôi à?” Ông Thuyết bảo: “Đáng ra
tôi còn phải trừ cả một hộp gỗ các bác tự tiện bán cho nhà Thục, nhưng vì cô ấy
tự giác mang trả lại cho tôi nên thôi”. Anh Bường bảo: “Hộp gỗ ấy tôi không
bán, tôi biếu người ta đấy. Bác làm như thế là nghĩa lí gì?” Ông Thuyết bảo:
Anh
Bường bảo: “Chiều nay nghỉ ngơi, sáng mai tao với cu Dĩnh ra bưu điện gửi tiền
về quê. Lão Sông với lão Biển gì mà vào, tao cử thằng Ngọc đứng ra đại diện”.
Chúng tôi rủ nhau đi tắm. Anh Bường bảo: “Tao có việc, đi vắng. Cứ ăn cơm trước
đi nhé”. Nói rồi mắt trước mắt sau ra đi. Tôi thấy điệu bộ anh Bường đáng ngờ
nên quyết định không đi tắm nữa, tìm cách rình xem.
Quả
nhiên, lúc sau, từ trong rừng tôi thấy Quy đi ra. ánh hoàng hôn buổi chiều hắt
lên cảnh vật một thứ ánh sáng mờ mờ buồn không thể tả. Quy cầm một nhành củi,
vừa đi vừa đập đập vào những bụi cây ven đường. Tôi không thích dáng vẻ tự tin
vô tư của Quy. Điều ấy ngu xuẩn biết bao. Phải, ngu xuẩn. Cả cô gái tôi đã từng
yêu cũng thế. Nàng cứ tưởng tự tin và tự do là điều hay hớm cho mình. Trăm lần
không, vạn lần không. Với phụ nữ, tự tin với tự do nghĩa là bất trắc, là hiểm
họa, là thiếu thốn, thậm chí còn có khả năng bất hạnh và điếm nhục. Với riêng
tôi, nhân cách của người phụ nữ trước hết là sự phụ thuộc của nàng đối với
chính tôi. Mãi mãi. Vĩnh viễn là như thế. Bởi tôi là đàn ông, là tôi. Không ai
thay thế được. Khi Quy đi qua chỗ anh Bường nấp thì vụt một cái, anh Bường chồm
dậy. Tôi nghe thấy tiếng Quy kêu thất thanh. Anh Bường bịt miệng, bế thốc cô
gái vào trong bụi rậm.
Tôi
hiểu ra được tình thế. Một nỗi căm giận khiến tôi đau đến thót tim. Tôi ngã vật
xuống, tắc nghẹn cả cổ. Tôi chồm dậy, vừa chạy vừa ngã, tôi lao đến chỗ bụi
cây. Quy bị lột truồng, hai bắp chân trần rối rít khua lên trời. Tôi kéo anh
Bường ra, đấm thẳng vào khuôn mặt méo xệch của anh ta. Anh Bường nhận ra tôi,
“a” lên một tiếng ngạc nhiên. Chúng tôi lao vào nhau như hai con thú. Khoảnh
đất chúng tôi đánh nhau rất hẹp, xung quanh là những bụi cây gai. Chúng tôi
không thể lùi, không thể tiến, cả hai nắm chặt tay nhau thủ thế, ở ngoài trông
vào chắc buồn cười lắm. Ghìm nhau một lúc, anh Bường rít lên: “Đồ chó, nếu muốn
đánh nhau thì ra ngoài kia, chứ trong bụi gai thế này, thì làm gì được?” Nói
rồi, anh Bường buông tay, tìm cách nhảy ra bãi trống. Tôi nhảy theo anh. Anh
Bường vừa lùi vừa bảo Quy, buồn hẳn: “Con ranh con, mặc quần vào! Có thích xem
đánh nhau thì đứng mà nhìn. Chúng ông đánh nhau vì mày đấy”. Nói rồi, anh Bường
thản nhiên đứng ngoáy lỗ mũi, tựa hồ như việc chúng tôi đánh nhau là việc tất
nhiên, điều ấy hoàn toàn vô nghĩa và không có giá trị gì.
Thú
thực là tôi bối rối. Anh Bường mỉm cười khuyến khích: “Thế nào? Tiến lên đi
chứ, công tử bột! Hãy mang chiến thắng về nộp dưới chân nàng Đuynxinê ở làng
Tôbôdô! “
Tôi
điên tiết. Một thoáng tự nhiên tôi nghĩ đến tình yêu đầu tiên trong cuộc đời
tôi. Dù cô gái ấy trăm lần phù phiếm, dối trá và vô luân, dù sao tôi đã yêu
nàng. Tôi biết chắc chắn sau nàng, trong tôi không còn tình yêu nào khác. Người
phụ nữ mà tôi sẽ gặp sẽ chẳng bao giờ khiến tôi vui sướng hoặc đau đớn nữa. Tôi
lao vào người anh Bường với tất cả sự căm giận và xót xa từ đáy lòng tôi. Chắc
hẳn anh Bường không thể ngờ rằng bất giác tôi lại trở nên hung hãn, tàn nhẫn
đến mức ấy. Cú ra đòn của tôi mạnh và độc đến nỗi nếu như dính đòn, địch thủ sẽ
chết hoặc tàn phế suốt đời. Anh Bường hét lên một tiếng để nhảy tránh đòn.
Chúng tôi đánh nhau ác liệt. Tôi vốn theo học môn phái Thiếu Lâm Hồng Gia, còn
anh Bường theo học môn phái Vịnh Xuân. Hồi ở bộ đội anh Bường cũng có học thêm
nhiều môn phái khác, vì vậy cách đánh của anh biến hớa khôn lường. Tôi luôn
luôn dính đòn. Có lẽ anh Bường không muốn hạ ngã tôi ngay nên cố tình đi chuyển
vòng tròn để tôi dần dần giảm bớt sức lực. Gần tiếng đồng hồ, cả hai chúng tôi
mệt lả, phải buông nhau ra.
Đêm
buông xuống. ánh trăng rạng rỡ khắp cả núi rừng. Tôi và anh Bường nằm lăn trên
cỏ, thở hồng hộc. Được một lúc, anh Bường ngồi dậy bảo tôi: “Mày có thấy thậm
ngu không, hai thằng đàn ông tự dưng lại đi đánh nhau vì một con đàn bà. Chẳng
ra sao cả”. Anh Bường nói tiếp, giọng lạc hẳn đi: “Ngọc ơi, mày đừng đau khổ
đến thế, mày có biết vì sao cái ấy của phụ nữ các cụ gọi là cái bướm không? Nó
là một thứ có cánh, phấp pha phấp phới. Nó là lộc của trời. Nó đậu vào chỗ nào
thì chỗ ấy được. Có khi người ta phải bắt nó đấy”. Tôi ngồi dậy, hộc ra một bãi
máu lớn. Tôi nói mà giọng run lên: “Anh khốn nạn lắm, con bé còn ít tuổi”. Anh
Bường bảo: “Mày chẳng hiểu gì. Ai lại đi tính tuổi cho bướm bao giờ. Một bà già
hay một cô gái đều hệt như nhau”. Tôi bảo: Anh đểu cáng và độc ác lắm”. Anh
Bường cười nhạt: “Con ơi, thế Giêsu Crit có đểu cáng và độc ác không? Như Lai
có đểu cáng và độc ác không?” Tôi bảo: “Con người - sự cao cả hình như chính ở
giới hạn của nó”. Anh Bường bảo: “Đúng thế đấy! Mày có thấy khi con Quy bị lột
truồng không? Với cách quặp đùi của nó, nó hoàn toàn cao cả về mặt tinh thần”.
Sương
xuống lạnh, chúng tôi lầm lũi đi về lán xẻt cả hai mặt mày thâm tím. Anh Bường
bảo: “Mày đánh ác lắm, đánh vỗ mặt. Như thế, võ công của mày chưa phải đã cao.
Bậc cao thủ đánh nhau kiểu khác. Khi kẻ địch ra đòn, bậc cao thủ tìm cách hòa
kết năng lượng của chính kẻ địch với mình. Tất nhiên, điều ấy phải được thực
hiện bằng các động tác kỹ thuật. Bậc cao thủ dẫn dắt kẻ địch theo những vòng
tròn. Vòng tròn bao giờ cũng là mô hình tuyệt hảo nhất trong toàn bộ không gian
sống. Thay cho việc dùng sức giải tỏa mâu thuẫn, bậc cao thủ buộc kẻ địch hiểu
rằng chỉ có nhẹ nhàng, mềm mỏng, lịch thiệp, tình thương, hòa hợp, yên ổn...
mới khép kín được quan hệ giữa những con người và quan hệ giữa từng con người
với toàn thế giới. Về kỹ thuật có thể tàn bạo nhưng về chiến lược phải dung
hòa, đúng hơn là phải ổn định, cân bằng. Đấy là toàn bộ lý luận của bậc cao
thủ”.
Tôi
cười thầm trong bóng tối. Cái tay Bường này, tôi biết, khi hắn lý giải về sự
sống nói chung, bao giờ hắn cũng minh triết, bao giờ hắn cũng cố gắng để giữ
cất cách thanh cao về mặt nhân cách. Thế nhưng đời thực của hắn thì như cứt
chó. Không sao ngửi được.
Sáng
hôm sau, chúng tôi chuyển chỗ vào nơi xẻ mới. Ông Sông người Thái là một ông
già sáu mươi hai tuổi, có khuôn mặt rất thật thà. Ông Sông bảo: “Gian khổ đấy,
chịu được không?” Anh Bường bảo: “Đằng nào chẳng đến địa ngục”.
Cây
dâu vàng mọc cheo leo ở lưng chừng núi, ngả về phía vực. Điều cốt yếu làm sao
phải hạ được để nó khỏi rơi vào giữa khe núi. Chúng tôi mất nửa ngày bàn bạc,
cuối cùng tìm ra cách tốt nhất, một mặt phải cưa bớt cành, làm dây níu, một mặt
phải đào cả đất, dọn một mặt bằng để hạ cây gỗ xuống an toàn. Mất đến chục ngày
chúng tôi mới hạ được cây gỗ xuống. Ông Sông thích lắm, mời chúng tôi về bản
thết đãi. Anh Bường bảo: “Tôi ở lại trông đồ đạc. Mọi người cứ đi đi”. Biên,
Biền, tôi và cu Dĩnh theo ông Sông về bản Vược. Bản Thái này ở ngay đường cái,
có chửng năm chục nóc nhà sàn. Những người trong bản ai cũng hiền lành và đều
tỏ ý thân thiện với chúng tôi. Chúng tôi ở lại nhà ông Sông uống rượu đến chiều
mới về. Về tới lán xẻ, chúng tôi hoảng hốt thấy chăn màn quần áo lung tung khắp
nơi, không thấy anh Bường dâu cả. Chúng tôi bổ đi tìm. Qua bờ vực, cu Dĩnh tinh
mắt phát hiện thấy những bụi cây dạt ra như thể có người lăn xuống. Tôi, Biên,
Biền mỗi người cầm một con dao bèn lần mò xuống.
Vực
sâu khoảng hơn trăm mét, dưới lòng vực là một con suối cạn khô. Những âm thanh
ở dưới lòng suối vọng lên như thể có người dánh nhau, chúng tôi ai cũng đoán
chắc anh Bường dưới dó. Quả nhiên, ở một đoạn suối hẹp, chúng tôi trông thấy
anh Bường đang quần nhau dữ dội với một con gấu to tướng. Con gấu đứng dựng
bằng hai chân sau tìm cách tấn công anh. Bường, miệng hộc nhữnủng khiếp. Anh
Bưởng tay cầm một đoạn tre ngắn, cố gắng tránh đòn.
Lưng
tựa vào vách đá, anh Bường cố đẩy con gấu ra xa, không để cho nó ép vào thế
hiểm nghèo. Đoạn tre tì vào ngực con gấu cong lại, bởi sức con gấu khỏe quá.
Anh Bường có vẻ núng thế, một bên bả vai nhòa máu, mồ hôi trên mặt đầm đìa.
Biên, Biền và tôi cùng hò hét xông vào. Biền nhanh tay chém được một nhát vào
vai con gấu. Con gấu quay lại, chồm người về phía chúng tôi. Bốn chúng tôi đứng
thành vòng tròn ở dưới lòng suối. Con gấu đứng giữa, điên cuồng tìm đường thoát
thân. Biên, Biền và tôi, trên tay mỗi người chỉ có một con dao găm ngắn lưỡi.
Còn anh Bường vũ khí chỉ là một đoạn gậy tre. Con gấu ngựa rất khỏe, nặng chừng
hai tạ, vì bị thương nên hung hãn lắm. Những cú vả của nó thật khủng khiếp,
cũng may cả bốn chúng tôi không ai dính đòn.
Biền
rất khôn, Biền thường chém dứ trước mặt con gấu để tạo thế cho ba chúng tôi đâm
từ bên sườn và sau lưng gấu. Một lần, lợi dụng khi gấu phục xuống, tôi đâm một
nhát dao vào trúng gáy nó. Nhát dao đâm mạnh đến lút dao. Con gấu bật ngửa ra
sau, Biền xô theo đà, cắm thẳng lưỡi dao vào giữa tim nó. Con gấu hộc lên một
tiếng khủng khiếp rồi ngã lăn ra, hai bên khóe mép sùi máu. Biên đâm tiếp vài
nhát nữa vào hai mạng sườn của nó. Sau mấy lần giãy, con gấu chết hẳn. Cả bốn
chúng tôi mệt lả, bủn rủn hết cả chân tay. Anh Bường mặt mũi tái mét, há miệng
cười như mếu. Sau này, tôi đã chứng kiến rất nhiều nụ cười chiến thắng ở nhiều
trường hợp khác nhau, tất cả những nụ cười ấy cũng đều như mếu, bao giờ điều ấy
cũng gây cho tôi một nỗi sợ hãi và cảm động khôn lường...
Anh
Bường dùng dao rạch bụng con gấu lấy mật. Chiếc mật lõng thõng những nước, to
bằng bốn đốt ngón tay. Anh Bường thích lắm, lấy một sợi dây buộc mật gấu đeo
ngay vào cổ. Ngay hôm ấy, chúng tôi dọn dẹp đồ đạc rồi khênh con gấu quay về
nông trường đến nhà chị Thục. Chúng tôi gõ cửa nhà chị Thục lúc hai giờ sáng.
Hàng xóm kéo đến, đông như hội. Anh Chỉnh bảo: “Chịu các bố thợ xẻ thật. Hạ
được con gấu đáng kể quá”. Anh Bường bảo: “Bây giờ lột da gấu rồi làm bữa chén,
mời tất cả xung quanh đến dự, được không chị Thục?” Chị Thục bảo: “Còn gì bằng.
ở xóm này có chục nóc nhà, đến dự tất cả thì vinh cho nhà này quá”.
Mọi
người xúm lại làm thịt gấu. Thịt gấu rất nạc và bùi. Chị Thục nấu một nồi cháo,
tống vào tất cả xương xẩu với bốn cái chân. Anh Chỉnh bảo: “ăn một bát cháo này
giá trị bằng cả một lạng cao hổ cốt đấy nhé!” Ông Thuyết cũng đến dự, mang theo
một can mười lít rượu trắng.
Ông
Thuyết bảo: “Chiều nay xuống đội T, không hiểu sao tôi lại rước can rượu này
về. Đúng số trời thật, ngày thường nếu ai mời rượu, tôi còn mắng cho ấy chứ”.
Anh Bường bảo: “Em lạy bác, bác đừng mắng những người hối lộ. Họ lòng thành
nhưng lại ngu ngốc, nếu là bậc cao nhân phải tự xót xa mà thương lấy họ”. Mọi
người uống rượu rất vui. Anh Bường càng uống rượu càng hăng. Anh Bường bảo:
“Tôi đang ngồi trong lán thì con gấu đến. Nó cứ xồng xộc đi vào, tôi hoảng quá,
tôi vớ được cây gậy cứ vụt lia lịa”. Chị Thục bảo: “Thế bác không sợ à?” Anh
Bường bảo: “Sợ chứ, nhưng rồi lại nghĩ: mẹ khỉ, đời chán lắm, sống cũng vậy mà
chết cũng vậy, cứ quyết tâm biết đâu chẳng giết được con thú ác. Đấy cũng là kỳ
tích trong đời, chẳng phải ai cũng làm được”. Mọi người cười. Em trai ông
Thuyết tên là Kháng ở Hà Nội lên chơi cũng ngồi uóng rượu, hỏi đùa anh Bường:
“Thế là bác làm việc thiện, việc nghĩa hoàn toàn chỉ do chán đời, có phải
không?” Anh Bường vặn lại: “Thưa bác, bác hỏi em thế là hỏi thật hay hỏi xỏ?”
Ông Kháng cười:
Ông
Sông đến. Mọi người mời vào uống rượu. Ông Sông cười: “Thế các chú có vào xẻ
tiếp nữa không hay hạ được gấu thì thôi?” Anh Bường bảo: “Chúng em giúp bác hạ
cây gỗ xuống, thế là xong. Còn kéo cưa lừa xẻ, bác là dân lao động, chúng em
biết bác cũng tự làm được”. Ông Sông bảo: “Phải”.
Chị
Thục bảo: “Tôi biết có một nơi xẻ gỗ dựng miếu thờ thần, cứ cơm no rượu say đi
đã rồi tôi sẽ bảo”. Anh Bường bảo: “Chúng em lòng thành, tâm thành, được xẻ gỗ
cho đấng thần linh, đấy là may phúc, lại thêm dày nghĩa tình, lấy gì chuộc
được?”
Chị
Thục bảo: “Nghĩa tình lại chuộc nghĩa tình. Vô sự với tạo hóa, trung thực đến
dáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợ không xứng là người”. Anh Bường bảo: “Ngọc
ơi, mày chép lấy câu này. Nó tù mù về hình thức, nhưng hình như chứa ẩn nội
dung gì đấy”.
Cơm
rượu xong chúng tôi lăn ra ngủ. Giấc ngủ. đến ngay với mơ, tôi thấy năm anh em
thợ xẻ chúng tôi đi trên một cái cẩu vồng bảy sắc. Những thiên sứ chạy ra đón
chúng tôi, áo xanh, áo đỏ tung bay phấp phới. Một thiên sứ có khuôn mặt trông
rất giống Quy. Những người thân thiết của tôi đứng hai bên đường. Tôi rất ngạc
nhiên khi thấy nàng, cô gái tôi đã từng yêu trước kia. Nàng chạy về phía tôi,
hai tay giang ra chào đón. Gục đầu vào ngực tôi, nàng khóc: “Anh Ngọc ơi, sau
bao đau đớn ê chề em đã hiểu rằng: chỉ có một anh thôi, còn lại là chúng nó”.
Tôi mỉm cười, tôi gỡ bàn tay bé nhỏ của nàng ra khỏi tay tôi và bảo: “Em lại
cực đoan rồi, hoàn toàn không phải thế. Anh chỉ là hạt cát bé nhỏ và bất lực
thôi... Cũng có thể anh chẳng mang lại điều gì hay hớm cho em dâu. Em hãy đi
đi, đi theo con đường số phận đã định cho mình”. Tôi đẩy nàng ra, tôi hốt hoảng
thực sự vì sự lãnh cảm dửng dưng của trái tim tôi.
Chúng
tôi cứ đi trên cái cầu vồng bảy sắc. Bạt ngàn là hoa ban trắng bên đường, màu
trắng đến là khắc khoải, nao lòng. Này hoa ban, một nghìn năm sau thì mày có
trắng thế không? Chúng tôi cứ đi, đi mãi... Tôi biết chắc ở trước mặt tôi đấy
là cổng Trời, là cổng Thiên đường...
*Sau
lần ấy, số phận đẩy tôi sang bước ngoặt khác, tôi không đi xẻ gỗ nữa, chuyển
sang làm việc khác.
Kết
Thúc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét